Thursday, September 4, 2008

THÀ CHẾT CHỨ KHÔNG THEO GIẶC !



Đó là lời thề một lòng chung thuỷ, son sắc với Đảng, với cách mạng của dân tộc Chăm, Ba Na vùng cao Thồ Lồ - Phú Mỡ (huyện Đồng Xuân, Phú yên). Đó cũng là câu nằm lòng của các dân tộc thiểu số Miền Tây đã giúp họ bền gan, vững chí, kinh thượng đoàn kết, quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ. Ông La Chí Noa – nguyên là uỷ viên thường vụ huyện uỷ được giao phụ trách mặt trận Miền Tây của tỉnh vừa kể chuyện, vừa nhắc lại như vậy với giọng điệu khẳng khái của một vị tổng chỉ huy các lực lượng trước lễ xuất quân năm nào. Ông kể rằng: Vào những năm 1962-1963, đây là thời điểm Mỹ nguỵ thực hiện chính sách khủng bố “Tam quang” - đốt sạch, giết sạch, cướp sạch. Chúng coi đó là biện pháp tách cá khỏi nước hòng cô lập hoạt động cách mạng. Mặt khác chúng ra sức càn quét, đánh phá dữ dội; toàn bộ nhà cửa, bò ngựa các vùng căn cứ cách mạng đều bị chúng đốt phá, cướp bóc không thương tiếc. Nhân dân bị chúng dồn vào các ấp chiến lược Bình Tuy, Đồng Tre, La Hai.
Lúc này Làng Đồng – xã Phú Mỡ (Đồng Xuân) là một trong những căn cứ trú quân của huyện đội Miền Tây và Trung đoàn Ngô Quyền - bộ đội chủ lực từ miền Bắc vào chuẩn bị cho những trận đánh lớn vào quận lỵ Đồng Xuân, Sông Cầu.
Vào mùa khô năm 63, trong một trận càn quét 7 ngày đêm của địch ở vùng núi Xuân Quang 1, Phú Mỡ. Chúng huy động rầm rộ các lực lượng không kích, pháo binh, bộ binh; trên không máy bay oanh tạc, dưới đất biệt kích, lính dù đổ bộ. Rừng ChưnBran, sông Hà Đan, suối Cà Tơn một dãy trường sơn mênh mông trong xanh bổng chốc rung chuyển, gầm rú tan hoang trong lửa đạn. Dân làng Đồng được lệnh di tản vào gộp đá Kôncalor tránh bom đạn – đó là một đường hầm thiên tạo dài hun hút, đủ sức che chở cho hàng trăm người lánh nạn càn quét. 7 ngày nằm trong hang đá, cái chết do đói khát đã rình rập, khắc khoải dân làng. Sau khi địch rút đi, trên 50 gia đình, với hàng trăm con người trở về làng. Thì than ôi ! nhà cửa, rinh lúa (kho) chỉ còn là đống tro tàn đổ nát, bò ngựa, heo gà lớp bị chúng cướp di, lớp bị chúng sát hại – xác súc vật chết ngổn ngang, vất vưởng ung thối cả một vùng rừng. Vừa đương đầu với bom đạn, chết chóc giờ lại phải cầm cự với cái đói nghiệt ngã cùng cực.
Ông La Văn Lung - trưởng thôn Xí Thoại – nguyên là trung đội trưởng đơn vị C3 đóng quân tại Làng Đồng cho biết: Nạn đói của làng Đồng bắt nguồn từ trận càn quét năm 63, tiếp đến là những đợt máy bay rải chất độc hoá học rừng cây trụi lá, rồi hạn hán mất mùa. Cái đói cứ lây lan cho dân làng và bộ đội sang tới năm 67. Đói dữ lắm, đói không thể tả - chuối cây, lá đu đủ người ăn cây không kịp lên, cành không kịp bén lá. Mỗi đọt lá sắn bây giờ là một hạt gạo quý, vậy mà chất độc hoá học của Mỹ thiêu rụi, triệt lấy nguồn sống. Mỹ nó độc ác còn hơn cọp beo trên rừng.
Dân làng hết cái ăn do mình làm ra thì quay sang tìm rau rừng, củ núi: trái sung, trái ngái, củ pấu, củ Nần, củ mài, rau chóc, lá rướng… là nguồn sống xung quanh làng nhưng đến lúc cũng phải cạn kiệt. Tìm cái ăn con người phải lang thang như con hươu, con nai đi tìm lộc cây, nguồn nước. Nhiều người đi tìm cái ăn bị đói lả, kiệt sức rồi chết ngoài suối, trong rừng. Củ nần, nấm độc đã cướp đi nhiều sinh mạng… Ngày laị qua ngày, nhìn những người thân thích ruột rà của mình lần lữa trút hơi thở cuôí cùng… mà bất lực, không biết phải làm gì. Trong làng ngày nào cũng có người chết. Nhà ông Ma Dơn – giàu có nhất làng, bò năm bảy chục con, giờ trắng tay; 15 người thân trong nhà (kể cả người ở mướn) lần lượt chết rụi không còn một ai. Nhẩm tính từ năm 63 đến năm 67, làng Đồng đã có 74 người chết đói và bệnh tật, chết nhiều nhất là năm 1963. Trong cảnh khốn cùng có người bức không chịu nổi bỏ theo địch vào ấp chiến lược nhưng đại đa số dân làng vẫn ở lại với bộ đội, đồng cam cộng khổ sống chết có nhau.
Ông Ma Doãn - sống thời đó, hiện giờ là già làng của làng Đồng, nguyên Bí thư xã Phú Mỡ từ năm 1967 - kể thêm: Gia đình tôi sống đông đủ đến nay là may mắn nhất; thằng La Chí Dũng kia, mẹ sinh ra nó năm 1964, năm đó đói quá, mẹ mất sữa, mỗi bữa tôi lần mò đến nhà nào có gạo nấu cơm để xin chắt vài giọt nước cơm mang về nhỏ vào miệng nó; vậy mà qua được, sống và lớn phỏng phao tới giờ. Tội cho bộ đội mình thời đó, một trung đội vài chục người ăn mà mỗi lần nấu chừng 2 ký gạo, miếng sắn, trái sung cõng trên lưng vài ba hột cơm - chấm với tro tranh mà ăn ngon ngọt. Thấy mà thương đứt ruột, nhưng chẳng biết làm sao được. Vậy mà vẫn gan dạ sống và chiến đấu đến ngày thắng lợi.
Cũng như bao chiến công thầm lặng, 74 người chết ở Làng Đồng chỉ là con số nhẩm tính, có thể chưa chính xác. Nhưng sự kiện chết đói do kẻ thù o ép, vùi dập là có thật. Những cái chết buất khuất, kiên cường để bám trụ buôn làng, để được tự do, để được sống với cách mạng, để núi rừng miền Tây trở thành luỹ thép thời đánh Mỹ. Sự hy sinh anh dũng và chiến công của họ đáng được nhắc nhớ để tự hào và tôn vinh.
Mạnh Minh Tâm.

No comments: