Friday, December 5, 2008

GIAI THOẠI VĂN NGHỆ:

“Ngợ” sĩ… nghĩ sợ
BÌNH SVC

Dân xứ Nẫu Phú Yên thường phát âm “ê” thành “ơ” nên nghệ sĩ thì đọc là ngợ sĩ (nói lái là nghĩ sợ). Nhằm tỏ bày ngưỡng mộ một số “nhà” ở đây, đã khiến tôi liều chấp bút; không liều thì biết đến chừng nào có ký sự bạn văn thơ này. Thôi thì: có biết, có quen, có sao ghi thế, có gì thêm bớt sau, chả mắc mớ gì…
CỐ NHÀ THƠ TUỔI TÝ
Tôi và cố nhà thơ nhà gần nhau, tình huynh đệ hơn hai mươi năm, nhiều kỷ niệm, gạt qua một bên chuyện chức danh công vụ, chỉ nói đến chất thật của cố nhà thơ: Đỗ Như Phước. Thơ ca họ Đỗ chủ yếu là gieo theo vần, miễn đọc nghe xuôi tai là được, một năm mười hai con giáp bất kể đến giáp nào chỉ việc đưa bút lên là xong ngay một bài thơ của giáp đấy, ngay cả gặp bịnh nan y phải vào tạm trú bệnh viện vẫn hỉ hả làm thơ tả bịnh của chính mình. Một tâm hồn lạc quan đến phút chót của tận cùng đời người, câu cửa miệng của nhà thơ này là đừng quá cầu toàn với hiện tại. Chính cái sự không cầu toàn đấy mà suốt cả cuộc đời của mình nhà thơ chuyên trị nghề hữu hảo, hết hữu nghị Việt xô, đến hữu nghị Việt-Cuba, và cũng chính cái sự biết chấp nhận những gì mà cuộc sống ban cho, nhà thơ đã cả gan thách thức căn bịnh khó chữa một khoảng thời gian cực dài. Thật kỳ tài và đáng nể. Thôi thì ông cố nhà thơ tuổi Tý ơi, xin ông hãy bình yên về với vĩnh hằng, hàng năm đến tết Nguyên Tiêu sẽ có người thay ông đọc lại những bài thơ gieo vần của ông đấy. Xin trịnh trọng cúi chào.
NHÀ THƠ “TIỀN SẠCH”
Đời người như bóng câu cửa sổ, trời kêu ai nấy dạ. Lê thiện Ngân cũng đột ngột từ giã anh em để về trời, còn lại là sự nhớ. Thiện Ngân là “tiền sạch”, nhà thơ này đã sống y chang như cái tên, cuộc đời điềm đạm ít bon chen hung dữ, chơi với bạn bè có trước có sau, thơ văn đậm chất từ bi, nghe đâu trước tham gia cửa thiền sau xét lại mình thiếu căn tu, đành về lại đời thường tiếp bước thơ ca.
Ông Ngân ơi! Những dòng ký sự này chỉ là chợt nhớ, chợt nghĩ, chợt thương để tưởng đến những bạn văn thơ đất Phú mà trong đấy có ông, ở đây không có những lời cao bóng cả, chúc tụng vô hồn mà là cái gì đấy thì tự bản thân ông cũng thừa hiểu bởi giờ đây ông đã là gì? Ông có biết không? Tuy ông không còn nói, không còn nghĩ, không còn làm thơ nữa nhưng ông vẫn hiểu được những gì mà bạn ông muốn nói, bởi ông đã là “Ma” mà ma luôn có những năng lực siêu phàm, có đúng không? Hử.
Rồi sẽ có một ngày các bạn ông có mặt đầy đủ bên mộ ông để quần tụ một bữa cho đỡ nhớ, riêng ông uống không được thì bọn tôi rắc rượu lên mộ ông, hưởng được cái hương hoa cũng quý lắm rồi. Thôi, xin nghiêng mình chào ông.
NHÀ VĂN NGÔ PHÚ THUẬN
Phải dùng đến từ “Lão” để gọi đến ông nhà văn này, dù sao cũng lắm tuổi thuộc hàng trên hưởng dương. Không phải đương nhiên lão được bạn bè phong cho chức danh “nhà văn” không cần thẻ một cách hoành tráng. Bởi xét thấy hành trình viết lách của lão cũng khá bầm dập trần ai, nhiều lận đận khốn nạn vì đói rách triền miên, đi đâu cũng phun đầy đói nghèo. Chính thế lão mới quyết “rắp tâm” tìm đường “cải tổ”, lão này trước đây bạ gì viết nấy, truyện ngắn, truyện dài, ngay cả món thơ ca cũng đâm đầu vào chẳng trúng trật gì nên khổ là chí phải, muốn gì thì gì cũng cần có cái chất “Pro”mới nên cơm cháo.
Khổ quá, đói quá riết cái đầu cũng buộc ló “khôn”, lão đã tìm ra được “Lộ trình” để “cải tổ” món truyện ngắn. Đấy là phải đi ngược lại những gì mà thiên hạ đã làm, mà quả thật thiên hạ cho “có” lão bảo “không”, thiên hạ đồ rằng hạnh phúc thì lão phản trở ngược là làm gì có hạnh phúc trên đời này tỷ như đặt vấn đề: “Có ai đã thấy Phật bao giờ?”. Văn của lão nhiều ý, đa nghĩa, ác nhiều hơn thiện, moi móc tủn mủn nhức óc đến độ ban giám khảo cuộc thi Báo Văn Nghệ chịu hết xiết đành cho lão giải nhất với hai truyện tầm tầm “Buổi sáng biến mất” và “Cơm chiều”.
Thế là đột phá thành danh, có hàng đặt liên miên, chẳng mấy khi rỗi rãi la cà với anh em. Nghe đâu truyện được in thành sách, lại còn dịch sang tiếng Tây, tiếng Mỹ nữa mới đúng “ác”.
“Nhà văn lớn” đương nhiên cái gì cũng phải lớn, chắc hẳn sau này không khéo sẽ thành “ học giả” chứ chẳng chơi!

NHÀ THƠ “DƠ”
Tổng quan mà xét thì anh này đáng được phong là “nhà thơ dơ nhất Việt Nam”, bộ dạng thường trực luộm thộm thều thào, có thể kết luận rằng đối với “Lê Anh” thì đất Phú này không có người nào gọi là xấu cả, gặp ai đôi lần, có thành bạn hay không Lê Anh vẫn chốt thẳng đét rằng: cái tay đấy tốt lắm. Đấy! Một con người thơ ca, một cuộc đời lận đận, thất bại nhiều hơn thành công, quanh năm được vợ hầu, chỉ biết nhìn sáng đón gió tạo hứng để viết những lời thơ rặt chất phú yên như: gió nồm xanh, say thơ dưới chân tháp cổ,vv.vv.
Nhà thơ Lê Anh là người luôn được nhớ, được mời trong những dịp giỗ, tiệc, và y như rằng nhu cầu phải đọc thơ trong những lần như thế đã ăn sâu vào máu thịt, không được đọc toàn thân sẽ ngứa ngáy, luôn nhấp nhổm đề nghị được đọc thơ để được tự sướng, mặc dù vẫn biết rằng lúc ấy mà đọc thơ là tréo cẳng ngỗng, là tra tấn người nghe, nhưng Lê Anh cóc biết chỉ biết rằng tôi đây cần phải đọc thơ, thế thôi. May thay độ rày nhà thơ ta có phần chững lại, bớt cái thói bạ đâu cũng đòi xì thơ, bạn bè mừng. Xin hết sức cảm ơn.
NHÀ THƠ “ÁP THẤP NHIỆT ĐỚI”
Tay này mới toanh đây, bộ dạng dân miền Tây lấc cấc tóc nhuộm hoe vàng, thoạt nhìn mà ai dám gọi là nhà thơ chắc chết liền. Thế mà dám đội đá vá trời tự xuất bản hai tập thơ có kích khổ chã giống ai. Thế mới tài, cần gì phải đi học trường thơ, đời và vợ nó đánh cho tơi tả liền tức cảnh sinh thơ ngay:
- Tập1, 90 bài mang tên “Áp thấp nhiệt đới”. Giá bán: 100 đồng /1 bài.
- Tập 2, 117 bài mang tên “Bên trong khung kiếng màu trà”. Gía bán: 90 đồng/1 bài
Cả hai tập đều xuất bản “lậu”, bỏ tiền túi tự in phát tặng bạn bè đọc chơi. Tay “áp thấp” này đã từng được vợ con và dòng họ cho rằng mắc bệnh thần kinh, từng sém cho đi “nhà thương điên Biên Hòa”, nhưng với y thì luôn chắc rằng: “Tui khôn tổ nội chứ điên khùng cái gì?”. Thôi được, điên hay không cứ việc nhìn qua các vần thơ hắn làm là biết ngay thôi.
Ba năm kết làm bạn thơ bạn nhậu
Ta với ngươi đem phần thiếu tặng nhau
Ở nơi ấy chắc thơ không biên tập
Ngươi cứ viết đi cho cạn tim ngươi
Bốn thơ trên dành ai điếu Lê Thiện Ngân về với trời xanh. Đã chưa? Điên gì mà điên! Có thể cho là cực hay, nếu chốn âm gian mà còn “biên tập thơ” thì Thiện Ngân dại gì về dưới ấy.
NỬA BÁO NỬA THƠ “TUẤN LIÊN”
Coi bộ khá độc chiêu, viết báo thành thơ, viết thơ thành báo, có khác gì nửa người nửa ngợm, riêng phần ngợm thì lấn lướt hơn, nên tính khí ngang tàng phung phí không biết lượng sức, cắm đầu cắm cổ, mắt nhắm chân chạy ma ra tông nên “Công danh, mi ở nơi đâu?”.
Ôm đồm đi đâu cũng khoe “tui là nhà thơ” trong khi đương kim là nhà báo đài phát thanh và làm thuê tùm lum báo; oai quá đi chứ, thu nhập của viết báo hơn xa lắc lương phóng viên. Hắn tự hào: “Ta có con cá rô, ta muốn thả một hay nhiều ao là quyền của ta”. Nguyên lý dở ồm thế mà lắm ông len lén copy, mới biết hậu sinh khả uý đến nhường nào.
Nhà “lỡ cỡ” này có cái giỏi chuyên viết “chân dung thiên hạ”, hắn thêm thắt vẽ vời khiến chân dung thường thường trở thành tuyệt tác, hóa đơn nhuận bút luôn chờ sẵn. Sướng!
Thơ hay như gái chưa chồng
Cứ ngông ngông cứ ngồng ngồng bay ra
Là câu viết trong tập thơ “Chiều chậm” năm 1993, hai câu thơ trên hắn đã tự vẽ chính chân dung của mình, cứ ngông ngông, cứ ngồng ngồng, mọi thứ sẽ tuốt tuột bay ra.
Chưa hết, còn sự này nữa mới đáng cho là độc đáo, viết báo: chuyện con ruồi, dám mở quán sách bán báo cho nông dân mới là chuyện lạ, ở một nơi mà chữ nghĩa được xem là xa xỉ thì tờ báo những mấy trang chỉ có nước đem đi gói kẹo. Vậy mà hắn ngông ngông đưa những tờ báo lắm chữ đến được tận tay nông dân, công nhân. Tới nay quán sách vẫn tồn tại, số đầu báo bán ngày càng tăng, có nghĩa là Viết báo + bán báo = đi đúng đường, ngông nhưng hiệu quả. Đáng được ngợi khen!
NHÀ TIỂU THUYẾT NHIỀU KỲ
Công nhận đúng là gan rồng, thọ giáo nghề viết văn chưa quá tuần lễ, thế mà dám thay gan người thành gan rồng để viết tiểu thuyết thần thoại dài mấy trăm trang. Xin cúi đầu bái phục. Không rõ phần hậu sự của pho tiểu thuyết có nên cơm cháo gì không thì chưa biết, chứ thấy mới sơ sơ đã nặn ra bao nhiêu là hồi, là chương rằng đủ thấy nội công cực kỳ thâm hậu, dám sánh với tác giả viết Cô gái đồ long hay Thần điêu đại hiệp.
Gốc là dân kỹ thuật 100%, trong đầu rặt dây đồng, dây điện vậy mà chuyển tông thành nhà văn nhanh như điện xẹt. Vậy mới biết cái hấp lực của chữ nghĩa văn chương nó ghê gớm đến nhường nào, viết cả ngàn bài chỉ đăng được vài bài, tiền nhuận bút còi cọc thế mà tâm hồn nó sướng lâng lâng còn hơn cả cầm tiền triệu trong tay.
Đó là kỹ sư điện tử Đinh Hùng sống tại Ninh Tịnh, phường 9, Tuy Hoà. Ai muốn học tập xin cứ việc liên lạc. Địa chỉ: Đài Phát Thanh Phú Yên. Tự cảm thấy ký sự này hơi dài, hơn nữa còn quá nhiều “đa, đề” nên xin kết thúc tại đây.

VỀ LẠI CHIẾN KHU XƯA
Trần Minh Châu
Chúng tôi là những thanh niên tình nguyện
Được tiếp bước cha anh khi đất nước hoà bình
Khi tổ quốc cần chúng tôi biết hy sinh
Đi bất cứ nơi đâu làm bất cứ việc gì
Trong chúng tôi luôn có tình đồng chí
Từng mặc quân phục xanh
trong nhịp bước khúc quân hành
Từng vượt đèo, lội suối băng sông
Vượt trường sơn đến nơi đầu giới tuyến
Hôm nay chúng tôi là thanh niên tình nguyện
Cùng nhau về thăm lại chiến khu xưa.

Thăm Hảo Danh, Hảo Nghĩa, Mỹ Lương
Đã từng đấu tranh anh dũng kiên cường
Đất và người Xuân Thọ 2 là thế !
Bước tiếp bước cùng nhau bao thế hệ
Bám đất giữ làng - giữ lấy chiến khu

Đất nước hôm nay sạch bóng quân thù
Chúng tôi về đây tìm về nguồn cội
Về chiến khu xưa trong ngày nắng mới
Uống nước nhớ nguồn, ơi đất mẹ hùng anh./.


SÓNG
THƯƠNG
Nguyễn Hữu Khoa
Nhớ, nhớ nhiều em gái nhỏ thôn Hai
Thương, thương lắm Xuân Hải chiều sóng vỗ
Như ở bên anh trong chiều nao mưa đổ
Chút ân tình khúc hát biển dịu êm

Từ phương xa anh nhớ tiếng biển đêm
Có lần hát Lăng người xa quê ở lại
Điệu hát Bộ cho thuyền xuôi con lái
Để nguồn đời chảy mãi ở trong tim

Đã có lần ở thôn Một chờ đêm
Say sưa hát nỗi niềm em gái nhỏ
Trăng lâng lâng cho lòng ai bày tỏ
Để bây giờ nhung nhớ chuyện đôi ta
Con sóng nào nghe nhè nhẹ thiết tha
Bổng chợt nhớ - bé thôn Ba nước lợ
Sao để lòng ta suốt đời trăn trở
Bài thơ tình say mộng khách phương xa

Nhớ tình thân ấm áp bao mái nhà
Em đang lưới xen nụ cười biển dã
Mai người đi nhớ về cơn sóng nhỏ
Nặng lòng ai trên những nẻo đường xa
Sóng yêu thương cho mỗi chuyến tàu qua
Cho mãi thắm tình em bờ biển mặn
Gió ngưng thổi cho trời êm sóng lặng
Nhớ em nhiều sóng mãi hiện mùa trăng

Đường về thôn Tư dừa xanh toả lá
Những ngày vui khoang thuyền đầy tôm cá
Mơ em cười cho ai đó chơi vơi
Nhớ ở bên nhau trong suốt cuộc đời
Sóng Xuân Hải thì thầm ru tình biển
Câu thơ xưa làm lòng ai xao xuyến
Trăng mơ màng ôm ấp biển em ơi !


Thăng hoa chả Bắc gia truyền…
Bài, ảnh ĐỨC TUẤN
Có thể nói đến giờ này, hệ thống sản xuất chả giò gia truyền Nguyên Hương (xuất xứ từ tỉnh Hải Dương) chưa áp dụng một chiêu thức tiếp thị hiện đại nào nhưng dấu ấn của sản phẩm này đã lừng lẫy năm châu, chí ít là trong giới người Việt sành ăn! “Kinh doanh ẩm thực nên “chắc cú” nhất là đi lên bằng truyền… miệng”, chị Nguyễn Thị Thu, chủ thương hiệu giò chả Nguyên Hương tại TP Tuy Hòa (Phú Yên) tự hào.
Tại Tuy Hòa, giá bán giò chả Nguyên Hương bao giờ cũng cao hơn sản phẩm tương tự của lò khác sản xuất. Mặt bằng thu nhập của người Tuy Hòa-Phú Yên chưa cao nên Nguyên Hương luôn cố gắng giữ mức lợi nhuận vừa phải, cốt yếu là gìn giữ uy tín chất lượng để duy trì đều đặn lượng hàng bán ra và nâng dần số lượng, doanh thu. Thức khuya dậy sớm, chân chỉ làm ăn bằng cả tấm lòng say nghề lại là một yếu tố khác để thành công của vợ chồng chị Thu. Rời Hải Dương “hành quân” đến Phú Yên lập nghiệp năm 1994, từ hai bàn tay trắng, giờ này gia đình anh chị Thu đã có cơ ngơi bề thế, con cái học hành đến nơi đến chốn, lại còn vài người cháu cùng vào định cư theo chân cây chả Bắc.
Miếng chả mịn màng, thơm phức, giòn ngọt, dứt khoát không thêm chất phụ gia “bất chính”, tuân thủ triệt để các chỉ tiêu an toàn vệ sinh thực phẩm; đó cũng là phần cốt yếu của chữ “tín” của Nguyên Hương. Bí quyết của Nguyên Hương cũng không phải là điều quá lạ, ngoài kỹ thuật và sự nhạy cảm trong quy trình xay giã - nêm nếm - bó - hấp, thì nguyên liệu đầu vào bắt buộc phải là loại thịt heo nạc đùi tươi “tuyển”, chất lượng nhất trong bất cứ hoàn cảnh nào. “Nếu không có nguyên liệu tốt thì Nguyên Hương… dừng làm! Nếu có lúc giá nguyên liệu “xịn” có lỡ đội giá thành thì bạn hàng, khách quen của Nguyên Hương cũng sẵn sàng chấp nhận, chứ sản phẩm của thương hiệu này không thể… giả cầy!”, anh Nguyễn Văn Hùng, chồng chị Thu, nói về nguyên tắc của lò chả gia đình. Anh Hùng còn ví von khi triết lý “một lần và mãi mãi” trong ẩm thực; anh còn nhớ hồi bao cấp, giò chả Nguyên Hương thuộc hàng thức ăn xa xỉ nhưng vẫn có nhiều khách trung thành, luôn dành dụm, tiết kiệm nhiều món chi khác để mua chả giò về ăn. Ngoài việc cung ứng sỉ, thấy nhiều người Phú Yên “siêng” ăn bánh mì, Nguyên Hương bèn chuyển một bộ phận nhân công sang bán bánh mì chả giò, chả quế. Cũng chỉ bánh mì kẹp chả, thêm tí rau hành-ngò, muối tiêu và nước tương; thế nhưng nơi nào Nguyên Hương đặt xe bánh mì là nơi đó đều có cảnh… chen lấn, xếp hàng! Dự tính tiếp theo của anh chị Thu là mở thêm điểm bán xôi gấc chả giò Nguyên Hương…
Với tay nghề chế biến giò chả gia truyền Nguyên Hương, những người trong dòng họ chia nhau “cát cứ” mỗi người một tỉnh, kể cả tận Mỹ, Canada, Úc,… hầu như không có sự “đụng đầu” cạnh tranh không cần thiết; và theo chị Thu thì tất cả bà con cô bác trong gia tộc làm giò chả đều ăn nên làm ra, con cái phương trưởng, lâu lâu du lịch gặp nhau thì “ăn chơi, đãi đằng” rất thịnh soạn. Chị Thu cho biết thêm: cũng bởi chưa đầu tư nhiều cho việc quảng bá nên khách quen người Phú Yên cứ phải đến chỗ chị mua chả giò gởi cho người thân hàng mấy trăm cây số, để ăn cho… đỡ nhớ! Chị khẳng định: chất lượng, hương vị thương hiệu chả Nguyên Hương gia truyền trong dòng tộc tại các tỉnh thành trong nước và nhiều nước trên thế giới đều “iso” thơm ngon, quyến rũ tương đương nhau… Phải chăng đây là “bí truyền” để thực khách không chán giò chả gia tộc Nguyên Hương, dẫu món này làm từ… thịt?



Một nhân vật văn hoá độc đáo…
Phóng sự HÙNG PHIÊN

Tên tui Đỗ Như Phước / Tóc bạc trắng như cước / Dáng to béo tầm thước / Người rất thích hài hước / Thấy gì hay bắt chước / Không ham chức ham tước / Chỉ ham tích đầy phước... Mấy dòng “lý lịch trích ngang” của nhà sưu tập “thế giới” hàng đầu Việt Nam, ông “trùm” thơ độc vận và là người làm từ thiện nổi tiếng Đỗ Như Phước vừa qua đời ngày 7.11.2008 ở tuổi 72 (ông sinh năm Bính Tý-1936)…
Về Phú Yên, hỏi “ông Phước nhà thơ” thì hầu như ai cũng biết, bởi ông quá nổi tiếng với những “món chơi” độc sầu, lại thường lên ti vi để nói chuyện và đọc thơ vui. Ví như xuân rồi, mừng năm tuổi của mình, ông làm bài thơ vần “í” dài đến 50 câu nhưng công chúng đêm thơ Nguyên tiêu núi Nhạn (Tuy Hòa) đã phăng phắc lắng nghe rồi vỗ tay rần rần. Bởi có “đủ thứ chuyện” như: WTO đã ký / Hội nhập thật hợp lý / Triệu người một ý chí / Quyết nâng cao dân trí / Tháo gỡ mọi thế bí / Sản xuất vượt tiêu chí / Được thế giới chú ý / Việt Nam nâng vị trí…; đến việc Không nên say lúy túy và tranh thủ … nịnh vợ: Chớ có đi bồ nhí / Để vợ cưng vợ quý… Hay như năm con Dê (Quý Mùi) ông làm thơ “ê”: Trai gái tuổi cập kê / Tối tối ra bờ đê / Ngồi dưới gốc cây lê / Bàn chuyện… trồng cà phê…, rồi không quên “làm tư tưởng”: Ăn xong Tết con dê / Công việc chớ bỏ bê / Không kéo dài lê thê / Học thêm tiếng Ăng-lê / Lấy vi tính bằng C…
Nhiều người biết, ông Đỗ Như Phước chẳng bao giờ nghĩ mình là nhà thơ, phải khó nhọc để làm thơ, “vần vè cho vui mà”, thế nhưng dân gian cứ gọi ông là nhà thơ! Cũng như chuyện ông được “đặc cách” đọc thơ trong Đêm thơ Nguyên tiêu núi Nhạn, được công chúng hưởng ứng nhiệt thành nhưng không ít nhà làm thơ “nghệ thuật” phản đối: “Đây là sân của nghệ thuật nghiêm túc, sao để thơ “dưỡng sinh” của ông Phước chen vào?”. Ông vui vẻ: “Vậy thì thôi!”. Thế nhưng có kỳ Nguyên tiêu vắng ông, công chúng chất vấn ban tổ chức tới tấp, thế là ông trở thành một thứ “đặc sản” nghiêm túc của đêm thơ, và cũng duy nhất một mình ông không đọc thơ “nghiêm túc” trong đêm thơ Nguyên tiêu lừng danh trên núi này…
Quả thật, ông không chối thơ mình đích thị là để “dưỡng sinh” chứ đâu mong khẳng định tên tuổi; ông chỉ làm chơi “cho khỏe người” thôi, còn ai nhớ là chuyện… của họ; vậy mà thơ ông cũng thấy người ta truyền miệng đọc đầy đường… Thế nhưng không phải ai làm thơ như ông Phước cũng được người đời nhớ! Nhiều người khó tính với nghệ thuật cũng phải “bái lạy” chất dí dỏm thông minh và cái “duyên ngầm trời cho” của bút pháp Đỗ Như Phước; chẳng những “nghệ thuật hóa” loại thơ dân gian độc vận, ông còn là người đi tiên phong sáng tác loại thơ “chân lý” mà có những câu cứ tưởng của… ai: Quê tôi có một dòng sông / Mùa hè nước cạn, mùa đông lại đầy / Mặt trời mọc đông lặn tây / Cá lội dưới nước, chim bay trên trời…
Xuất phát từ cuộc chiến với ung thư, ông đã biến đời mình thành một cuộc chơi đầy ý vị và có được những thành quả… ngoài dự đoán! Mê chơi “đủ món” và lĩnh vực nào cũng có thành tựu. Suốt ngày hồn hậu nói chuyện hài hước nhưng ít ai biết được ông già 72 tuổi đã chiến đấu từng giờ với căn bệnh ung thư đeo đẳng suốt 40 năm qua (mái tóc bạc sớm cũng do việc “xạ trị” ung thư), bên mình lúc nào cũng phải gắn hậu môn nhân tạo là một bọc… chuyên dụng! Ngay cả cái “bãi đáp” này cũng được ông trào lộng: Thế giới có vệ tinh nhân tạo / Phước tui có… hậu môn nhân tạo! Ông cười hề hề và mở thắt lưng chỉ tôi xem cái “bãi đáp” của mình một cách hồn nhiên.
Ông thú thật chính việc đặt vè độc vận đã đem lại cho ông và mọi người niềm vui vô bờ bến. Phong thái hài hước cũng đã giúp ông mở lòng giao du với khắp nơi, tất cả mọi người, năm châu bốn biển. Ông kể đã có lần đọc thơ “độc vận” bằng… tiếng Nga làm cho quan khách nhiều nước ôm bụng cười “lăn lê bò toài”. Chính mối quan hệ rộng rãi này đã đưa ông đến với công việc ở Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị tỉnh Phú Khánh, rồi Phú Yên khi trở lại quê nhà. Như cá gặp nước, bản tính hồn hậu cởi mở, ham đi đó đây, ông lại như muốn thu cả thế giới về nhà mình qua các kỷ vật của tất cả các nước trên thế giới, chủ yếu là những thứ rẻ tiền như cờ, huy hiệu, kỷ niệm chương, búp bê... của các nền văn hóa trên thế giới. Nhiều nước bây giờ không còn tên trên bản đồ thế giới nhưng lại hiện hữu ở… nhà ông Đỗ Như Phước! Ky cóp 40 năm, căn nhà ông đã trở thành một bảo tàng thực thụ với trên 10.000 kỷ vật của 84 nước trên thế giới!
Đường quan chức của ông có thể thênh thang nếu “thích”, bởi ông tham gia cách mạng sớm, có trình độ, tư chất thông minh, gia đình ông có nhiều người thành đạt… Nhưng đời với ông “vui là chính, làm tới chức quan… hữu nghị chớ ít sao!” rồi về hưu mê say làm chuyện “tào lao” và lặn lội “cúi mình” đi gõ cửa vận động từ thiện. Có thể ông rất giàu nếu bán một số “chuyện chơi”, ví như ông đã lắc đầu từ chối khi một “đại gia” đặt vấn đề chuyển nhượng bộ sưu tập nồng ấm tình quốc tế này với giá trên 1 tỷ đồng! Thế nhưng ông Phước sẵn sàng tặng… Cuối năm 2007, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã “nghe danh-đánh tiếng” và ông Đỗ Như Phước đã tặng 84 huy hiệu-tranh-tượng-mô hình lưu niệm của các nước cho bảo tàng này. Thư cảm ơn của Giám đốc bảo tàng này có đoạn: “Hành động của ông Đỗ Như Phước là một nghĩa cử cao đẹp có ý nghĩa tác động sâu rộng với các tầng lớp xã hội trong vấn đề hiến tặng di sản Văn hóa cho Bảo tàng quốc gia”.
Sự nghiệp của ông bề thế như vậy nhưng khi tôi hỏi “Bác thích “thứ” nào nhất?”, ông Đỗ Như Phước vô tư: “Làm thơ con cóc”! Và năm con trâu này, ông có còn làm bài thơ vần “âu”?…
H.P










Nghệ sĩ ở tỉnh…
Đức Tuấn
Xin bớt chút thời gian cho tôi lạm bàn về chuyện địa bàn sống và sự đóng góp của nghệ sĩ. Xin hiểu đơn giản đây chỉ là đôi điều so sánh chuyện nghề, chuyện sống của nghệ sĩ ở tỉnh và nghệ sĩ tại các thành phố lớn…, so sánh trong giới hạn hiểu biết của người viết. Và làm sao để nghệ sĩ ở tỉnh vươn lên khẳng định mình với công chúng thưởng thức đang ngày càng đòi hỏi cao hơn trước. Trước hết phải nói, bản thân tác phẩm nghệ thuật có lớn hay không, chẳng có nhiều liên quan đến chuyện người nghệ sĩ sống ở tỉnh hay ở thành phố lớn. Chẳng phải với khả năng tầm tầm nhưng đến nơi đo hội là anh được biết đến. Khả năng anh đến đâu, anh chỉ thể hiện được đến đó thôi, không hơn không kém! Thế nhưng, có nhiều nghệ sĩ ở các tỉnh lại có suy nghĩ: phải đến sống ở các trung tâm văn hóa- kinh tế thì tác phẩm của mình mới có điều kiện… lớn được!? Có thể, nơi chốn năng động, giao lưu mạnh thì tác phẩm ra lò dễ có điều kiện đến với công chúng hơn và thu nhập của nghệ sĩ rủng rỉnh hơn. Tuy nhiên, thời đại công nghệ thông tin - internet bây giờ, chuyện khoảng cách địa lý không hẳn là điều quá quan trọng nữa rồi. Vấn đề là tác phẩm của anh làm ra có mới mẻ, giá trị đích thực hay không… Tuy nhiên, có một thực tế là nghệ sĩ ở các tỉnh nhiều khi hay có đôi nét suy nghĩ yếm thế, làm lấy có để phục vụ tại chỗ, đóng cửa khen nhau, và thế là cái sự vươn lên khẳng định có phần ít oi… Ở các tỉnh trong nươc ta bây giờ, từng lĩnh vực nghệ thuật như: sân khấu, âm nhạc, hội họa, kiến truc, văn học,… đều có những nghệ sĩ đứng chân và họ đều có những đóng góp nhất định đối với nhu cầu thưởng ngoạn của người dân địa phương. Đôi khi, sự đóng góp của họ ở trong tỉnh là khá lớn nhưng bước ra ngoài tỉnh thì ầu như chẳng ai biết về tác phẩm của họ… Thiển nghĩ, sự đóng góp tích cực, dù nhỏ dù lớn của tác phẩm nghệ thuật đều đáng quý, đáng trọng. Mỗi sắc thái văn hóa của từng địa phương, công chúng mỗi vùng đều có cái “gu” riêng trong chuyện yêu và đến với văn nghệ. Vì thế, công chúng tỉnh nào cũng rất cần những con người nghệ sĩ tại chỗ, am hiểu tận cùng vùng đất của họ để phổ hồn của đất của người nơi đó thành tác phẩm nghệ thuật. Và dù tác phẩm ấy, nơi khác không biết nhưng vẫn là tác phẩm nằm lòng của dân bản địa; thế là vui cho nghệ thuật, vui cho nghệ sĩ lắm rồi còn gì… Cũng có một thực tế khác là sự phát triển thông tin, dân trí hiện nay đã tạo nên một lớp công chúng mới, có những đòi hỏi mới về thưởng thức nghệ thuật. Thế nên, họ mặc nhiên không dùng đến những sản phẩm văn nghệ nhàng nhàng kiểu phong trào, “nghệ thuật cấp tỉnh” (như lời một số người). Sự giao thương, giao lưu sản phẩm nghệ thuật tại nhiều tỉnh bây giờ cũng đã phong phú không kém mấy các thành phố lớn, nên sự lựa chọn của công chúng đã thuận lợi hơn nhiều. Điều này dẫn đến việc một số nghệ sĩ ở tỉnh bị mất “khách hàng” ngay trên “thị phần” của mình… Tán đôi lời để thấy rằng vấn đề cốt lõi của nghệ thuật là phải tạo được hiệu ứng. Xin cho phép mong mỏi rằng nghệ sĩ tại tỉnh phải dùi mài, tạo dựng tác phẩm hay thêm nhiều để công chúng tỉnh đó thêm cơ hội “mở mày mở mặt” với thiên hạ. Những hạt nhân, những đỉnh cao văn nghệ luôn là sự kiếm tìm, trân trọng của công chúng, của nhân dân. Mong lắm thay những tài năng nghệ thuật ở các tỉnh có thể bay lên để nới rộng tầm ảnh hưởng. Đó cũng là một cách quảng bá chất văn hóa, hình ảnh của tỉnh nhà ra với nhiều người, nhiều nơi hơn nữa… Và khi nghệ sĩ có được “thương hiệu” thì mọi chuyện cũng… dễ!
Đ.Đ.T